Dầu sinh học là gì? Các công bố khoa học về Dầu sinh học
Dầu sinh học là một loại nhiên liệu được sản xuất từ các nguồn tươi (thảo mộc, cây cỏ, rau, đậu nành, v.v.) thay vì từ các nguồn hóa thạch như dầu mỏ. Quá trình...
Dầu sinh học là một loại nhiên liệu được sản xuất từ các nguồn tươi (thảo mộc, cây cỏ, rau, đậu nành, v.v.) thay vì từ các nguồn hóa thạch như dầu mỏ. Quá trình sản xuất dầu sinh học thường được gọi là chế biến sinh học, trong đó nguyên liệu thực vật qua các quá trình như nghiền, ép, lên men và ép lọc để tách dầu. Dầu sinh học thường được sử dụng như một nguồn năng lượng tái tạo và bền vững, có thể sử dụng trong ngành công nghiệp, giao thông và sản xuất nhiên liệu gia đình. Việc sử dụng dầu sinh học giúp giảm phụ thuộc vào dầu mỏ và là một phương pháp giảm khí thải carbon hiệu quả.
Dầu sinh học được sản xuất thông qua quá trình chế biến sinh học, thường gồm các bước sau:
1. Thu thập nguyên liệu thực vật: Các loại cây cỏ, thảo mộc, rau, đậu nành, hạt cỏ, cây cỏ, lúa mì... được trồng và thu hoạch để sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất dầu sinh học.
2. Tiền xử lý nguyên liệu: Nguyên liệu thực vật thô thường cần qua quá trình nghiền, ép lên men và lọc để tách lấy phần chất béo.
3. Chuyển hóa thành dầu sinh học: Sau khi tiền xử lý, các tạp chất và chất béo trong nguyên liệu thực vật được chuyển hóa thành dầu sinh học thông qua các phương pháp như ép, cất, chấm dầu hoặc thụ động hóa.
4. Tinh chế dầu sinh học: Quá trình này bao gồm các bước lọc và tẩy rửa nhằm loại bỏ tạp chất và cải thiện chất lượng của dầu sinh học.
5. Lưu trữ và phân phối: Sau khi tinh chế, dầu sinh học được lưu trữ trong các bể chứa và đóng gói vào các thùng, can hoặc bình để tiện vận chuyển và phân phối đến các điểm tiêu thụ.
Dầu sinh học có nhiều ứng dụng khác nhau. Trong ngành công nghiệp, nó có thể được sử dụng làm một nguyên liệu đốt, chất bôi trơn, thành phần của nhiều sản phẩm công nghiệp khác. Trong ngành giao thông, dầu sinh học có thể được sử dụng làm nhiên liệu cho các phương tiện giao thông đường bộ, hàng không và đường thủy. Ngoài ra, dầu sinh học cũng có thể được sử dụng như một nguồn nhiên liệu gia đình, để làm nhiên liệu cho các lò nấu ăn và các thiết bị sưởi ấm gia đình.
Sự phát triển và sử dụng dầu sinh học giúp giảm phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch như dầu mỏ, đồng thời đóng góp vào giảm khí thải carbon, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự bền vững cho nguồn cung năng lượng trong tương lai.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "dầu sinh học":
Quần thể vi sinh vật bám vào bề mặt, bao gồm một hoặc nhiều loài thường được gọi là màng sinh học. Sử dụng một phương pháp thử nghiệm đơn giản để khởi đầu hình thành màng sinh học (ví dụ: bám vào bề mặt không sinh học) của chủng
Bài tổng quan này mô tả nhiều phương pháp để nhận diện và phân biệt giữa hai cơ chế chết tế bào khác nhau, apoptosis và hoại tử. Đa phần các phương pháp này đã được áp dụng trong các nghiên cứu về apoptosis trong dòng tế bào bạch cầu HL-60 của người bị kích hoạt bởi các chất ức chế DNA topoizomeras I hoặc II, và trong các tế bào tuyến ức của chuột bởi cả chất ức chế topoizomeras hoặc prednisolone. Trong hầu hết các trường hợp, apoptosis chọn lọc đối với tế bào trong pha nhất định của chu kỳ tế bào: chỉ tế bào HL-60 pha S và tế bào tuyến ức G0 bị ảnh hưởng chính. Hoại tử được kích hoạt bởi nồng độ quá cao của những loại thuốc này. Các đặc điểm tế bào sau đây đã được xác định có ích trong việc nhận diện kiểu chết tế bào: (a) Sự kích hoạt endonuclease trong tế bào apoptosis dẫn đến việc chiết xuất DNA có trọng lượng phân tử thấp sau khi tế bào bị thẩm thấu, dẫn đến giảm khả năng nhuộm bằng các fluoroquinone đặc hiệu với DNA. Đo hàm lượng DNA giúp nhận diện tế bào apoptosis và phát hiện được pha đặc hiệu của chu kỳ tế bào liên quan đến tiến trình apoptosis. (b) Tính toàn vẹn màng tế bào, mất trong tế bào hoại tử nhưng không mất trong tế bào apoptosis, đã được thăm dò bằng cách loại trừ iodua propidium (PI). Sự kết hợp giữa PI và Hoechst 33342 tỏ ra là một đầu dò tuyệt vời để phân biệt các tế bào sống, hoại tử, apoptosis sớm và muộn. (c) Điện thế xuyên màng ty thể, đo thông qua khả năng giữ rhodamine 123 được giữ nguyên trong tế bào apoptosis nhưng không trong tế bào hoại tử. (d) Bơm proton lysosome phụ thuộc vào ATP, thử nghiệm thông qua khả năng hút acridine orange (AO) trong môi trường sống, cũng được giữ nguyên trong tế bào apoptosis nhưng không trong tế bào hoại tử. (e) Phân tích bivariate của tế bào được nhuộm DNA và protein tiết lộ giảm đáng kể hàm lượng protein trong tế bào apoptosis, có lẽ do sự kích hoạt của protease nội sinh. Tế bào hoại tử, có màng bị rò, có hàm lượng protein tối thiểu. (f) Nhuộm RNA cho phép phân biệt giữa tế bào G0 và G1 và như vậy có thể chứng minh rằng apoptosis lựa chọn tế bào tuyến ức G0. (g) Sự giảm trong tán xạ ánh sáng phía trước, được đi kèm bởi hoặc không có thay đổi (tế bào HL-60) hoặc tăng (tế bào tuyến ức) của tán xạ góc phải, là những thay đổi sớm trong apoptosis. (h) Độ nhạy của DNA in situ đối với sự suy thoái, tăng trong tế bào apoptosis và tế bào hoại tử. Đặc điểm này, được thăm dò bằng cách nhuộm với AO ở pH thấp, cung cấp một thử nghiệm nhạy cảm và sớm để phân biệt giữa các tế bào sống, tế bào apoptosis và tế bào hoại tử, cũng như để đánh giá đặc điểm pha chu kỳ tế bào của các tiến trình này. (i) Phương pháp chuyển dịch nick in situ sử dụng triphospohonucloside gắn nhãn có thể được sử dụng để tiết lộ đứt gãy sợi DNA, để phát hiện giai đoạn rất sớm của apoptosis. Dữ liệu cho thấy rằng lưu lượng tế bào học có thể được áp dụng trong nghiên cứu cơ bản về cơ chế sinh hóa và phân tử của apoptosis, cũng như trong lâm sàng nơi khả năng theo dõi các dấu hiệu sớm của apoptosis trong các mẫu từ các khối u của bệnh nhân có thể dự đoán kết quả của một số phác đồ điều trị. © 1992 Wiley-Liss, Inc.
Một phương pháp xét nghiệm PCR phát huỳnh quang (TaqMan) đã được phát triển để phát hiện các dòng vi khuẩn
Bệnh tiểu đường loại 2 là kết quả của sự kết hợp giữa khả năng tiết insulin bị suy giảm và độ nhạy insulin giảm của các mô mục tiêu. Ước tính có khoảng 150 triệu người bị ảnh hưởng trên toàn thế giới, trong đó một tỷ lệ lớn vẫn chưa được chẩn đoán do thiếu triệu chứng cụ thể ở giai đoạn đầu của bệnh và chẩn đoán không đầy đủ. Trong nghiên cứu này, phân tích chuyển hóa dựa trên NMR kết hợp với thống kê đa biến đã được áp dụng để xem xét các thay đổi chuyển hóa trong nước tiểu ở hai mô hình gặm nhấm của bệnh tiểu đường loại 2 cũng như ở những người mắc bệnh không sử dụng thuốc. Chuột db/db và chuột cống béo ăn (fa/fa) có khiếm khuyết lặn tự nhiễn trong gen thụ thể leptin, gây ra bệnh tiểu đường loại 2. 1Quang phổ H-NMR của nước tiểu đã được sử dụng kết hợp với thống kê đơn biến và đa biến để xác định các thay đổi chuyển hóa liên quan đến bệnh trong hai mô hình động vật này và ở người bệnh. Nghiên cứu này chứng minh sự tương đồng trong chuyển hóa giữa ba loài được khảo sát, bao gồm phản ứng chuyển hóa liên quan đến căng thẳng hệ thống tổng quát, thay đổi trong chu trình TCA, và sự rối loạn trong chuyển hóa nucleotide cũng như trong chuyển hóa methylamine. Tất cả ba loài đều thể hiện những thay đổi sâu sắc trong chuyển hóa nucleotide, bao gồm cả N-methylnicotinamide và N-methyl-2-pyridone-5-carboxamide, điều này có thể cung cấp các dấu ấn sinh học độc đáo để theo dõi sự tiến triển của bệnh tiểu đường loại 2.
Sáng kiến các dấu ấn tiến triển bệnh Parkinson (PPMI) là một nghiên cứu quan sát, quốc tế được thiết kế để thiết lập các nhóm dấu ấn sinh học và xác định các dấu ấn tiến triển bệnh Parkinson (PD) thông qua lâm sàng, hình ảnh, gen và mẫu sinh học nhằm đẩy nhanh các thử nghiệm điều trị thay đổi bệnh.
Tổng cộng có 423 bệnh nhân PD không được điều trị, 196 người chứng khỏe mạnh (HC) và 64 người SWEDD (các quét không có bằng chứng về thiếu hụt dopaminergic) đã được tuyển mộ tại 24 cơ sở. Để tuyển chọn bệnh nhân PD càng sớm càng tốt sau khi chẩn đoán, các đối tượng chỉ cần có chứng bradykinesia không đối xứng hoặc run cộng với thiếu hụt gắn kết vận chuyển dopamine (DAT) trên hình ảnh SPECT. Việc thu thập dữ liệu được tiêu chuẩn hóa như đã được mô tả tại
Khoảng 9% các chủ thể được tuyển chọn có một dấu hiệu PD duy nhất tại thời điểm bắt đầu. Hình ảnh DAT đã loại trừ 16% số bệnh nhân PD tiềm năng có SWEDD. Tổng số điểm MDS-UPDRS cho PD là 32.4 so với 4.6 cho HC và 28.2 cho SWEDD. Trung bình, các bệnh nhân PD thể hiện sự giảm 45% và 68% trong tỷ lệ gắn kết đặc hiệu (SBR) ở đuôi và vùng đen ở phía đối diện so với nhóm chứng. Dịch não tủy (CSF) đã được thu thập từ hơn 97% tất cả các đối tượng. CSF (PD/HC/SWEDD pg/mL) α‐synuclein (1845/2204/2141) giảm ở PD so với HC hoặc SWEDD (P < 0.03). Tương tự, t-tau (45/53) và p-tau (16/18) cũng giảm ở PD so với HC (P < 0.01).
PPMI đã chi tiết hóa dấu ấn sinh học cho một nhóm PD sớm được xác định bởi các đặc điểm lâm sàng và biomarker hình ảnh. Chiến lược này cung cấp khuôn khổ để thiết lập các nhóm dấu ấn sinh học và định nghĩa các dấu ấn tiến triển theo thời gian để hỗ trợ cho các thử nghiệm điều trị PD trong tương lai.
Bệnh COVID-19 là một bệnh lý hô hấp do virus gây ra, được gây ra bởi Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng coronavirus type 2 (SARS-CoV-2). Những bệnh nhân mắc bệnh này có thể dễ bị huyết khối tĩnh mạch hoặc động mạch hơn do sự kích hoạt của nhiều yếu tố liên quan, bao gồm viêm, kích hoạt tiểu cầu và rối loạn chức năng nội mạc. Protein gây cảm ứng interferon gamma-10 (IP-10), protein hóa học dòng đơn bào-1 (MCP-1) và protein viêm đại thực bào 1-alpha (MIP1α) là các cytokine liên quan đến huyết khối. Do đó, nghiên cứu này tập trung vào ba chỉ số này trong bệnh COVID-19, với hy vọng tìm ra các dấu ấn sinh học liên quan đến kết quả lâm sàng của bệnh nhân.
Nghiên cứu này là một nghiên cứu hồi cứu tại một trung tâm đơn, với 74 bệnh nhân COVID-19 nặng và nguy kịch được tuyển chọn từ khoa hồi sức tích cực của Bệnh viện Tongji ở Vũ Hán, Trung Quốc. Các bệnh nhân được chia thành hai nhóm: bệnh nhân nặng và bệnh nhân nguy kịch. Mức độ IP-10, MCP-1 và MIP1α trong huyết thanh của cả hai nhóm được phát hiện bằng bộ dụng cụ xét nghiệm miễn dịch liên hợp enzyme (ELISA). Các triệu chứng lâm sàng, kết quả xét nghiệm trong phòng thí nghiệm và kết quả điều trị của bệnh nhân COVID-19 đã được phân tích hồi cứu.
<b><i>Đặt vấn đề/Mục tiêu:</i></b> MicroRNA miR-21, miR-221 và miR-145 đã được liên kết với hệ thống tim mạch. Chúng tôi nhằm so sánh nồng độ huyết thanh của ba microRNA (miRNAs) này ở các mức độ nghiêm trọng khác nhau của các bệnh mạch máu não và đánh giá khả năng sử dụng các miRNA này như là dấu hiệu sinh học cho đột quỵ. <b><i>Phương pháp:</i></b> Chúng tôi đã tuyển chọn 167 đối tượng bị đột quỵ thiếu máu, 66 đối tượng xơ vữa động mạch có bất kỳ chỉ số mảng bám carotid nào và 157 người làm chứng khỏe mạnh. Ba loại đối tượng này đại diện cho ba cấp độ nghiêm trọng trong các bệnh mạch máu não. Phân tích phương sai được sử dụng để đánh giá mối quan hệ giữa các miRNA và mức độ nghiêm trọng của bệnh với điều chỉnh cho các yếu tố rủi ro thông thường. Để kiểm tra dự đoán cho đột quỵ, chúng tôi đã xây dựng các mô hình hồi quy bao gồm nồng độ miRNA trong huyết thanh và các yếu tố rủi ro. Khả năng dự đoán được so sánh qua các đường cong đặc trưng của người nhận. <b><i>Kết quả:</i></b> Bệnh nhân đột quỵ và các đối tượng xơ vữa động mạch có nồng độ miR-21 trong huyết thanh cao hơn và nồng độ miR-221 thấp hơn đáng kể so với các đối tượng khỏe mạnh, trong khi sự biểu hiện của miR-145 quá thấp để cung cấp thông tin hữu ích trong bối cảnh này. Mô hình tốt nhất cho thấy miR-21 và miR-221 là những yếu tố dự đoán độc lập. Có sự gia tăng 6,2 lần nguy cơ đột quỵ khi nồng độ miR-21 tăng lên theo log<sub>10</sub>2<sup>-ΔCt</sup> = 1, trong khi sự giảm 10,4 lần được quan sát khi miR-221 giảm theo log<sub>10</sub>2<sup>-ΔCt</sup> = 1. <b><i>Kết luận:</i></b> Huyết thanh miR-145 không được phát hiện ở hơn 50% bệnh nhân và có thể không phải là một dấu hiệu lý tưởng để dự đoán đột quỵ. MiR-21 và miR-221 là các dấu hiệu sinh học mới cho xơ vữa động mạch và đột quỵ.
Tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) trong bối cảnh bệnh gan nhiễm mỡ do rượu (ALD) và không do rượu (NAFLD) đang gia tăng tại các xã hội phương Tây. Mặc dù biết được các quần thể có nguy cơ phát triển HCC, việc thiếu các phương tiện giám sát nhạy cảm và đặc hiệu cản trở việc phát hiện bệnh ở giai đoạn có thể chữa trị. Dấu ấn HCC huyết thanh được sử dụng rộng rãi nhất là alpha-fetoprotein (AFP), trong khi đó PIVKA-II, glypican-3 (GP3) và kháng nguyên ung thư biểu mô vảy-1 (SCCA-1) được đề xuất như các dấu ấn sinh học mới. Đánh giá các dấu ấn sinh học HCC này chủ yếu được thực hiện ở bệnh nhân viêm gan vi-rút. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu cắt ngang đánh giá giá trị của các protein huyết thanh này, cũng như một dấu ấn sinh học ứng viên mới -follistatin - ở bệnh nhân có HCC phát triển trên nền ALD hoặc NAFLD.
Mẫu huyết thanh trước điều trị từ 50 bệnh nhân có HCC hình thành trên nền ALD (n = 31) hoặc NAFLD (n = 19) được đánh giá bằng thử nghiệm ELISA đặc hiệu cho PIVKAII, Glypican-3, SCCA-1 và Follistatin. Kết quả được so sánh và đối chiếu với nhóm bệnh nhân đối chứng có xác nhận chẩn đoán xơ gan liên quan steatohepatitis qua sinh thiết (n = 41). Độ chính xác chẩn đoán của mỗi dấu ấn sinh học ứng viên được đánh giá sử dụng phân tích đường cong đặc trưng hoạt động của máy thu (ROC), báo cáo diện tích dưới đường cong (AUC) và khoảng tin cậy 95% (CI) của nó. Hiệu suất được so sánh với dấu ấn sinh học đã thiết lập, AFP.
Mức độ serum của tất cả các protein được đánh giá bằng các thử nghiệm ELISA đặc hiệu. GP3, SCCA-1 và follistatin không có lợi ích giám sát HCC trong những bệnh nhân này. AFP và PIVKAII vượt trội hơn các dấu ấn khác, đặc biệt khi kết hợp.
Chúng tôi kết luận rằng mặc dù cần thiết gấp rút các phương tiện giám sát mới, kết hợp AFP và PIVKAII cho HCC là một cải tiến so với chỉ riêng AFP ở những bệnh nhân ALD/NAFLD. Hơn nữa, dữ liệu của chúng tôi trong nhóm đồng nhất này, đặc biệt là xác nhận không vai trò của SCCA-1, cho thấy việc lựa chọn các dấu ấn sinh học tối ưu cho giám sát HCC có thể được xác định bởi nguyên nhân của bệnh gan mãn tính nền tảng.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10